Lee Byung Hun (李秉宪 – 이병헌) là một trong những nam diễn viên hàng đầu của Hàn Quốc, nổi tiếng với diễn xuất thực lực và khả năng biến hóa đa dạng trong từng vai diễn.
Anh đã chinh phục khán giả trong nước và quốc tế với hàng loạt tác phẩm điện ảnh và truyền hình đình đám, từ những bộ phim tình cảm lãng mạn cho đến những pha hành động nghẹt thở.
Tên tuổi của Lee Byung Hun gắn liền với Joint Security Area (2000), All In (2003), A Bittersweet Life (2005), The Good, the Bad, the Weird (2008), Iris (2009), I Saw the Devil (2010), Masquerade (2012), Mr. Sunshine (2018), Squid Game (2021) và nhiều tác phẩm khác.
Không chỉ được công nhận tại Hàn Quốc, Lee Byung Hun còn ghi dấu ấn tại Hollywood với các vai diễn trong G.I. Joe: The Rise of Cobra (2009), G.I. Joe: Retaliation (2013), Red 2 (2013) và Terminator Genisys (2015).
Tổng quan về diễn viên Lee Byung Hun
Thông tin | Chi tiết |
---|---|
✅Tên đầy đủ | ⭐Lee Byung Hun |
✅Tên tiếng Trung | ⭐李秉宪 |
✅Tên tiếng Hàn | ⭐이병헌 |
✅Tên tiếng Anh | ⭐Lee Byung Hun |
✅Giới tính | ⭐Nam |
✅Quốc tịch | ⭐Hàn Quốc |
✅Nơi sinh | ⭐Seoul |
✅Ngày sinh | ⭐12/7/1970 |
✅Tốt nghiệp trường | ⭐Đại học Hanyang |
✅Cung hoàng đạo | ⭐Cự Giải |
✅Nhóm máu | ⭐O |
✅Chiều cao | ⭐177 cm |
✅Cân nặng | ⭐72 kg |
✅Tác phẩm tiêu biểu | ⭐Mr. Sunshine, G.I. Joe: Retaliation, Terminator Genisys, Keys to the Heart |
✅Nghề nghiệp | ⭐Diễn viên, Diễn viên lồng tiếng |
✅Thành tựu chính | ⭐Giải thưởng lớn (Daesang) hạng mục Điện ảnh tại Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang ⭐Hai lần đoạt giải Nam diễn viên chính xuất sắc nhất hạng mục Điện ảnh tại Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang ⭐Giải thưởng Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh ⭐Giải thưởng Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Châu Á – Thái Bình Dương ⭐Giải thưởng Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Châu Á |
✅Biệt danh | |
✅Vợ | Lee Min-jung (diễn viên) |
Thông tin cơ bản
Lee Byung Hun là một nam diễn viên người Hàn Quốc. Anh sinh ra tại Seoul và tốt nghiệp Đại học Hanyang.
Năm 1991, anh ra mắt sau khi tham gia khóa đào tạo diễn viên của đài KBS.
Năm 1995, anh giành được giải thưởng Nam diễn viên mới xuất sắc nhất tại Giải thưởng Chuông Vàng với vai diễn trong bộ phim đầu tay Who Drives Me Mad.
Năm 2000, Lee Byung Hun giành được giải thưởng Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Chuông Vàng lần thứ 38 với vai diễn trong bộ phim chiến tranh kinh dị Joint Security Area.
Năm 2001, anh giành được giải thưởng Ngôi sao được yêu thích nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 22 với vai diễn trong bộ phim tình cảm Bungee Jumping of Their Own.
Năm 2002, Lee Byung Hun được đề cử cho giải thưởng Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 23 với vai diễn trong bộ phim kinh dị tình cảm Addicted.
Năm 2006, chính phủ Pháp trao tặng Lee Byung Hun Huân chương Văn hóa Nghệ thuật “Hiệp sĩ” của Pháp.
Cùng năm đó, anh giành được giải thưởng Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Nghệ thuật Điện ảnh Chunsa lần thứ 15 với vai diễn trong bộ phim Once in a Summer.
Năm 2009, Lee Byung Hun chính thức tiến quân vào Hollywood với vai diễn trong bộ phim hành động G.I. Joe: The Rise of Cobra.
Năm 2012, anh giành được giải thưởng Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Châu Á – Thái Bình Dương với vai diễn trong bộ phim lịch sử Masquerade.
Năm 2015, anh tham gia bộ phim Hollywood Beyond Deceit.
Năm 2016, anh giành được giải thưởng Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Busan lần thứ 25 và Giải thưởng của Hiệp hội phê bình phim Hàn Quốc lần thứ 36 với vai diễn trong Inside Men.
Tháng 10 năm 2020, anh giành được giải thưởng Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng của Hiệp hội phê bình phim Hàn Quốc lần thứ 40 với vai diễn trong The Man Standing Next.
Thời niên thiếu
Lee Byung Hun sinh năm 1970 và trải qua những năm tiểu học tại trường tiểu học Daewang.
Sau đó, anh học trung học cơ sở tại trường Yongdong và trường Jungdong, rồi theo học khoa tiếng Pháp của Đại học Hanyang và cao học ngành Báo chí – Phát thanh của Đại học Chung-Ang.
Lúc nhỏ, Lee Byung Hun chịu ảnh hưởng từ người cha – một người hâm mộ điện ảnh kỳ cựu – nên có ước mơ trở thành đạo diễn phim.
Anh thường xuyên lui tới các rạp chiếu phim từ năm 4 tuổi và dành thời gian cuối tuần xem các chương trình phim ảnh cùng cha ở nhà.
Sự nghiệp diễn xuất
Nổi lên
Năm 1991, Lee Byung Hun ra mắt sau khi tham gia khóa đào tạo diễn viên của đài KBS. Anh chính thức ra mắt với một vai phụ trong bộ phim truyền hình Asphalt My Hometown. Đạo diễn Jung Eul-young đã rất nghiêm khắc với anh trong quá trình quay phim, điều này đã ảnh hưởng đến thái độ của Lee Byung Hun đối với sự nghiệp diễn xuất sau này.
Năm 1995, anh tham gia bộ phim điện ảnh đầu tay Who Drives Me Mad và giành được giải thưởng Nam diễn viên mới xuất sắc nhất tại Giải thưởng Chuông Vàng.
Năm 1999, Lee Byung Hun đóng cùng Jeon Do-yeon trong bộ phim tình cảm The Harmonium in My Memory do Lee Young-jae đạo diễn.
Năm 2000, anh đóng vai chính trong bộ phim chiến tranh kinh dị Joint Security Area và giành được giải thưởng Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Chuông Vàng lần thứ 38 và Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 21.
Năm 2001, anh đóng vai chính trong bộ phim tình cảm Bungee Jumping of Their Own và giành được giải thưởng Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 22.
Năm 2002, Lee Byung Hun đóng cùng Lee Mi-yeon trong bộ phim kinh dị tình cảm Addicted và giành được giải thưởng Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 23.
Năm 2003, Lee Byung Hun đóng cùng Song Hye-kyo trong bộ phim tình cảm All In, vào vai In-ha.
Bộ phim kể về câu chuyện tình yêu và tình bạn đan xen, cạnh tranh lẫn nhau, đạt rating hơn 50% khi phát sóng tại Hàn Quốc. Sau đó, anh ngừng đóng phim truyền hình và tập trung vào thị trường điện ảnh.
Tháng 7 năm 2004, anh đóng cùng Choi Ji-woo trong bộ phim Everybody Has Secrets do Jang Hyun-soo đạo diễn, vào vai tay chơi tình trường Soo-hyun.
Tháng 8, Lee Byung Hun tham gia bộ phim kinh dị Three… Extremes II với vai trò khách mời, vào vai một đạo diễn phim.
Năm 2005, anh đóng vai chính trong bộ phim hành động tội phạm A Bittersweet Life do Kim Jee-woon đạo diễn, giành được giải thưởng Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Chuông Vàng lần thứ 42 và Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 26, đồng thời có cơ hội bước lên thảm đỏ Cannes và ký hợp đồng với Hollywood.
Năm 2006, Lee Byung Hun đóng vai chính trong bộ phim tình cảm Once in a Summer.
Bộ phim không đạt được thành công về mặt doanh thu phòng vé tại Hàn Quốc, chỉ đạt chưa đến 300.000 vé, nhưng đã mang về cho anh giải thưởng Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Nghệ thuật Điện ảnh Chunsa lần thứ 15.
Cùng năm đó, chính phủ Pháp trao tặng Lee Byung Hun Huân chương Văn hóa Nghệ thuật “Hiệp sĩ” của Pháp.
Năm 2007, anh tham gia bộ phim Hero cùng với Kimura Takuya, được chuyển thể từ bộ phim truyền hình Nhật Bản năm 2001, vào vai một công tố viên Hàn Quốc.
Phát triển ổn định
Tháng 7 năm 2008, Lee Byung Hun đóng cùng Jung Woo-sung và Song Kang-ho trong bộ phim hành động phiêu lưu The Good, the Bad, the Weird do Kim Jee-woon đạo diễn, vào vai “kẻ xấu”.
Bộ phim này là lời tri ân đến bộ phim Viễn Tây The Good, the Bad and the Ugly của Sergio Leone. The Good, the Bad, the Weird đã giành được giải Phim hay nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 29, Lee Byung Hun nhận được 6 đề cử tại Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 29 và giải Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Châu Á lần thứ 3.
Tháng 5 năm 2009, anh đóng cùng Josh Hartnett và Kimura Takuya trong bộ phim kinh dị I Come with the Rain do Trần Anh Hùng đạo diễn, vào vai Shitao. Bộ phim có kinh phí sản xuất lên tới 18 triệu USD.
Tháng 8, anh đóng cùng Channing Tatum và Sienna Miller trong bộ phim hành động G.I. Joe: The Rise of Cobra do Stephen Sommers đạo diễn, vào vai Storm Shadow.
Tháng 3 năm 2010, Lee Byung Hun đóng cùng Han Chae-young trong bộ phim tình cảm A Man Called God do Lee Jae-gyu đạo diễn, vào vai “W”, một nhân vật bí ẩn có thể du hành thời gian.
Tháng 8, Lee Byung Hun đóng cùng Choi Min-sik trong bộ phim kinh dị tội phạm I Saw the Devil do Kim Jee-woon đạo diễn.
Bộ phim kể về cuộc đối đầu giữa Kyung-chul (Choi Min-sik), một kẻ giết người hàng loạt biến thái, và Soo-hyun (Lee Byung Hun), một đặc vụ quyết tâm trả thù cho vị hôn thê đã chết của mình.
I Saw the Devil đã giành được giải thưởng Quạ Vàng tại Liên hoan phim Quốc tế Brussels lần thứ 29, Lee Byung Hun giành được giải thưởng Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 31 và Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang lần thứ 47.
Năm 2011, anh tham gia bộ phim truyền hình Nhật Bản Diplomat Kosaku Kuroda cùng với Kou Shibasaki và Teruyuki Kagawa, vào vai John, bạn cũ và là người cung cấp thông tin cho Kosaku Kuroda.
Năm 2012, Lee Byung Hun đóng cùng Ryu Seung-ryong trong bộ phim lịch sử Masquerade, vào vai vua Gwanghae của Triều Tiên. Anh đã giành được giải thưởng Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Chuông Vàng lần thứ 49, Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 33 và Giải thưởng Điện ảnh Châu Á – Thái Bình Dương.
Tháng 3 năm 2013, anh đóng cùng Bruce Willis và Ray Stevenson trong bộ phim hành động G.I. Joe: Retaliation do Jon M. Chu đạo diễn, tiếp tục vào vai Storm Shadow. Bộ phim kể về cuộc chiến sinh tử của biệt đội đặc nhiệm G.I. Joe chống lại tổ chức khủng bố Cobra. Tháng 11, anh tham gia bộ phim hài hành động Red 2.
Năm 2014, anh đóng cùng Arnold Schwarzenegger trong bộ phim hành động Terminator Genisys.
Năm 2015, Lee Byung Hun xác nhận tham gia bộ phim kinh dị Hollywood Beyond Deceit. Bộ phim kể về một luật sư chống lại những hành vi sai trái của một công ty dược phẩm, đột nhiên bị vu khống là kẻ giết người, từ đó dẫn đến một loạt câu chuyện.
Phim có sự tham gia của Anthony Hopkins và Al Pacino, vai diễn của Lee Byung Hun vẫn chưa được tiết lộ.
Ngày 23 tháng 4, công ty quản lý BH Entertainment của Lee Byung Hun thông báo anh sẽ tham gia Rush Hour 4 và hợp tác với Diddy.
Tháng 8, anh tham gia bộ phim hành động Viễn Tây The Magnificent Seven, được làm lại từ bộ phim cùng tên năm 1960.
Tháng 12, anh tham gia bộ phim hành động tội phạm Master, vào vai Chủ tịch Jin, kẻ chủ mưu của vụ lừa đảo, một người đàn ông xảo quyệt và có đầu óc tính toán.
Năm 2016, Lee Byung Hun đóng cặp với Gong Hyo-jin trong bộ phim tình cảm Single Rider, vào vai một cặp vợ chồng.
Ngày 29 tháng 2, anh tham dự lễ trao giải Oscar lần thứ 88 với tư cách là người trao giải. Ngày 3 tháng 6, anh giành được giải thưởng Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang lần thứ 52 với vai diễn trong Inside Men.
Năm 2017, anh đóng vai chính trong bộ phim điện ảnh Keys to the Heart và bộ phim truyền hình Mr. Sunshine do Kim Eun-sook viết kịch bản.
Ngày 1 tháng 5 năm 2019, anh giành được giải thưởng Nam diễn viên chính xuất sắc nhất hạng mục Truyền hình tại Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang lần thứ 55 với vai diễn trong Mr. Sunshine. Bộ phim điện ảnh Ashfall do anh tham gia được công chiếu tại Hàn Quốc vào tháng 12.
Ngày 12 tháng 5 năm 2020, dàn diễn viên của bộ phim điện ảnh thảm họa hàng không Emergency Declaration được công bố, trong đó có Lee Byung Hun.
Ngày 3 tháng 6, anh giành được giải thưởng Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Chuông Vàng lần thứ 56 với vai diễn trong Ashfall.
Tháng 8 năm 2020, anh tham gia bộ phim khoa học viễn tưởng Concrete Utopia cùng với Park Bo-young và Park Seo-joon.
Cuối năm đó, Lee Byung Hun tham gia bộ phim điện ảnh về cờ vây The Match, sau đó tiếp tục tham gia quay phim Concrete Utopia.
Tháng 9 năm 2021, anh đóng vai chính trong bộ phim truyền hình kinh dị Squid Game của Netflix do Hwang Dong-hyuk đạo diễn.
Ngày 15 tháng 12 năm 2021, theo truyền thông Hàn Quốc, bộ phim điện ảnh Emergency Declaration với sự tham gia của Song Kang-ho, Lee Byung Hun và Jeon Do-yeon, dự kiến ra mắt vào cuối tháng 1, đã quyết định dời lịch chiếu.
Năm 2022, anh tham gia bộ phim truyền hình Our Blues.
Tháng 8 cùng năm, anh xác nhận sẽ tham gia phần 2 của Squid Game.
Ngày 18 tháng 6 năm 2023, Lee Byung Hun xác nhận trở lại trong phần 2 của bộ phim ăn khách Squid Game trên Netflix. Ngày 9 tháng 8 năm 2023, bộ phim Concrete Utopia do anh đóng chính được công chiếu.
Tháng 11 cùng năm, anh giành được giải thưởng Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải thưởng Chuông Vàng lần thứ 59 và Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 44 với vai diễn trong phim này.
Đời tư
Lee Byung Hun sinh ra ở Seoul, Hàn Quốc. Anh có một em gái, Lee Eun-hee, người đã giành được danh hiệu Hoa hậu Thân thiện của cuộc thi Hoa hậu Hàn Quốc năm 1996.
Anh tốt nghiệp Đại học Hanyang với chuyên ngành Văn học Pháp và Trường Cao học của Đại học Chung-Ang với chuyên ngành Sân khấu và Quay phim.
Trong thời gian rảnh rỗi, Lee tập taekwondo.
Các mối quan hệ
Lee Byung Hun trước đây có mối quan hệ tình cảm với bạn diễn Song Hye-kyo trong All In từ đầu những năm 2000.
Mối quan hệ này, mặc dù được giữ kín hoàn toàn và hiếm khi được công khai, đã kéo dài mười lăm tháng trước khi họ chia tay vào giữa tháng 6 năm 2004. Lee Byung Hun kết hôn với nữ diễn viên Lee Min-jung vào ngày 10 tháng 8 năm 2013, tại Grand Hyatt Seoul.
Cặp đôi đã hẹn hò một thời gian ngắn vào năm 2006, sau đó nối lại mối quan hệ vào năm 2012. Vợ của Lee Byung Hun đã sinh con đầu lòng của họ, một bé trai, Lee Joon-hoo, vào ngày 31 tháng 3 năm 2015.
Vào ngày 4 tháng 8 năm 2023, vợ của Lee xác nhận rằng cô đang mang thai đứa con thứ hai của họ. Họ đã chào đón sự ra đời của đứa con thứ hai, một bé gái, vào ngày 21 tháng 12 năm 2023.
Sau khi phải trả một số khoản nợ sau cái chết của cha mình, Lee Byung Hun đã rơi vào trầm cảm. Sau đó, anh bắt đầu bị rối loạn hoảng sợ và thấy khó khăn khi tham dự các lễ trao giải. Lee Byung Hun cho rằng vợ anh đã giúp anh vượt qua những thử thách về sức khỏe tâm thần.
Vụ kiện dân sự và cáo buộc cờ bạc
Vào ngày 9 tháng 12 năm 2009, bạn gái cũ của Lee Byung Hun là Kwon Mi-yeon đã đệ đơn kiện dân sự với cáo buộc cô bị lừa vào mối quan hệ tình dục với ngôi sao này dựa trên lời hứa hôn nhân.
Cô tuyên bố Lee Byung Hun đã gây ra cho cô sự đau khổ về tinh thần và tổn hại về thể chất cùng với tuyên bố rằng Lee là một người nghiện cờ bạc kinh niên và kiện đòi 100 triệu won.
Công ty quản lý của Lee, BH Entertainment, phản bác rằng những tuyên bố của cô đều sai sự thật và vụ kiện mang tính chất trả thù do chia tay.
Lee Byung Hun đã kiện ngược lại Kwon tội phỉ báng và tống tiền.
Ngay sau khi vụ kiện được đệ trình, người dẫn chương trình truyền hình Kang Byung-kyu đã xuất hiện trên phim trường bộ phim truyền hình Iris mà Lee Byung Hun đang thực hiện vào thời điểm đó.
Anh ta bị cáo buộc đã đưa xã hội đen vào và gây rối do mâu thuẫn với nhà sản xuất mà anh ta tuyên bố đã tung tin đồn rằng Kang đứng sau mối thù giữa Lee và Kwon.
Do vụ việc này, Kang đã bị bắt vì tội hành hung.
Kang sau đó cũng bị truy tố về tội tống tiền và phỉ báng, các công tố viên cáo buộc Kang và Kwon đã thông đồng để tống tiền Lee với số tiền lớn vào tháng 11 năm 2009, trước khi Kwon tiếp tục đệ đơn kiện dân sự vào tháng 12, sau khi Lee Byung Hun từ chối trả tiền.
Lee Byung Hun đã được xóa bỏ cáo buộc đánh bạc bất hợp pháp vào ngày 19 tháng 3 năm 2010, các công tố viên cho biết không có bằng chứng.
Yêu cầu bồi thường thiệt hại của Kwon cuối cùng đã bị bác bỏ vào tháng 8 năm 2010 do cô không tham gia tố tụng.
Kang cuối cùng bị kết án một năm tù giam và ba năm quản chế vào năm 2013 về tội lừa đảo và hành hung.
Vụ bê bối tống tiền
Vào ngày 28 tháng 8 năm 2014, Lee Byung Hun bị ca sĩ Dahee từ nhóm nhạc nữ K-pop GLAM và người mẫu Lee Ji-yeon tống tiền 5 tỷ won (khoảng 4.000.000 USD) để đổi lấy việc không phát tán trên internet một đoạn video ghi lại cảnh anh đang nói đùa tục tĩu khi uống rượu với họ vào ngày 3 tháng 7.
Dahee và Lee Ji-yeon đã bị bắt vào ngày 1 tháng 9, sau khi Lee Byung Hun báo cáo tội ác với cảnh sát khi họ đưa cho anh ta hai chiếc vali để vận chuyển tiền.
Sau đó, người ta tiết lộ rằng tội ác này hoàn toàn là cố ý và được lên kế hoạch trước, vì cả Dahee và Lee Ji-yeon đều tìm vé máy bay để trốn sang châu Âu và mua hai chiếc vali để sử dụng cho việc vận chuyển tiền.
Hơn nữa, hai người phụ nữ đã cố gắng quay thêm một video về việc Lee ôm Lee Ji-yeon bằng cách bí mật đặt một chiếc điện thoại thông minh vào bồn rửa bát trong bếp, nhưng họ đã không làm được.
Tuy nhiên, Lee Ji-yeon tuyên bố rằng hành vi tống tiền là một hành động bốc đồng sau khi Lee Byung Hun chia tay với cô, công ty quản lý của Lee đã đưa ra một tuyên bố chính thức, nói rằng Lee Byung Hun chưa một lần gặp cô ấy một mình và rằng anh ấy đã đề cập với hai người phụ nữ rằng anh ấy muốn ngừng gặp họ khi anh ấy cảm thấy động cơ mờ ám từ họ, sau khi nói về những khó khăn tài chính của họ, yêu cầu anh ấy mua cho họ một ngôi nhà.
Phiên tòa cuối cùng được tổ chức tại Tòa án quận Seoul vào ngày 15 tháng 1 năm 2015, nơi Dahee bị kết án một năm tù giam và Lee Ji-yeon một năm hai tháng.
Vào tháng 2, sau khi tuyên án, Lee Byung Hun đã yêu cầu ân xá cho những người phụ nữ này, trong khi bên công tố phụ trách cảm thấy bản án quá khoan dung.
Vào tháng 3, cả hai người phụ nữ, những người đã ở tù sáu tháng, đã nhận được án treo trong hai năm, sau yêu cầu ân xá của Lee Byung Hun. Nhóm nhạc nữ K-pop GLAM đã tan rã sau khi Dahee bị kết án.
Phim truyền hình
Tên phim (tiếng Trung) | Tên phim | Năm phát hành | Vai diễn | Đạo diễn | Các diễn viên chính khác |
---|---|---|---|---|---|
我们的蓝调 | Our Blues | 2022-4-9 | Lee Dong-seok | ||
鱿鱼游戏 | Squid Game | 2021-9-17 | Hwang In-ho | Hwang Dong-hyuk | Lee Jung-jae, Park Hae-soo |
阳光先生 | Mr. Sunshine | 2018-7-7 | Eugene Choi | Lee Eung-bok | Kim Tae-ri |
外交官黑田康作 | Diplomat Kosaku Kuroda | 2011 | |||
IRIS | Iris | 2009-10-14 | Kim Hyun-jun | Kim Kyu-tae, Yang Yoon-ho | Kim Tae-hee, Jung Joon-ho |
All In | All In | 2003 | In-ha | Yoo Chul-yong | Song Hye-kyo, Ji Sung |
洛城生死恋 | Love Story in Los Angeles | 2003 | |||
美丽的日子 | Beautiful Days | 2001-3-14 | Lee Min-chul | Lee Jang-soo | Ryu Si-won, Choi Ji-woo |
远行 | Long Journey | 2001 | |||
向日葵 | Sunflower | 1999 | |||
欢乐时光 | Happy Together | 1999-6-16 | Tae-poong | Oh Jong-rok | Song Seung-heon, Kim Ha-neul |
莎丽回来了 | Sally is Back | 1999 | |||
爱情故事 | Love Story | 1999 | |||
白夜3.98 | White Nights 3.98 | 1998-8-31 | Min Gyeong-bin | Kim Jong-hak | Shim Eun-ha, Choi Min-soo |
浪漫风暴 | Romance Storm | 1997-4-19 | Kim In-ha | Shim Eun-ha | |
我愿 | I Want | 1997 | |||
白沙 | White Sand | 1997 | |||
玫瑰之泪 | Tears of Roses | 1997 | |||
双色婚纱 | Two-Tone Wedding Dress | 1997 | |||
风之子 | The Wind’s Son | 1995-8-30 | Hong Pyo | ||
车神传说 | The Legend of the Car God | 1995-5-17 | Kang Dong-seok | ||
The Legend Of Car God | The Legend Of Car God | 1995 | |||
爱的香气 | The Fragrance of Love | 1994-4-9 | Joon-ho | ||
The Fragrance Of Love | The Fragrance Of Love | 1994 | |||
侥生存者的悲哀 | Sorrow of the Survivor | 1993 | |||
警察 | Police | 1993 | |||
The Sorrow Of the Survivor | Sorrow of the Survivor | 1993 | |||
野菊花 | Wild Chrysanthemum | 1992 | |||
明天的爱 | Tomorrow’s Love | 1992 | |||
有太阳的日子 | Days with the Sun | 1992 | |||
没有离别的早晨 | No Parting Mornings | 1992 | |||
明天的爱情 | Tomorrow’s Love | 1992 | |||
风花不会枯萎 | Flowers in the Wind Won’t Wither | 1991 | |||
Asphalt My Hometown, Asphalt | Asphalt My Hometown | 1991 | |||
家族 | Family | 1991 | |||
Asphalt 我的故乡 | Asphalt My Hometown | 1991 | |||
雾不会散 | The Fog Won’t Disperse | 1991 |
Phim điện ảnh
Tên phim (tiếng Trung) | Tên phim (tiếng Việt) | Năm phát hành | Vai diễn | Đạo diễn | Các diễn viên chính khác | Ghi chú |
---|---|---|---|---|---|---|
混凝土乌托邦 | Concrete Utopia: Chung cư sinh tồn | 2023 | Park Seo-joon, Park Bo-young | |||
白头山 | Núi Baekdu | 2019-12-19 | Ri Joon-pyeong | |||
南山的部长们 | The Man Standing Next | 2019 | Woo Min-ho | Lee Sung-min | ||
那才是我的世界 | Keys to the Heart | 2018 | Choi Sung-hyun | Park Jung-min, Youn Yuh-jung | ||
南汉山城 | The Fortress | 2017-10-3 | Choi Myung-kil | Hwang Dong-hyuk | Kim Yoon-seok | |
单身骑士 | Single Rider | 2017-2-22 | Kang Jae-hoon | Lee Joo-young | Gong Hyo-jin | |
豪勇七蛟龙 | The Magnificent Seven | 2016-9-23 | Billy Rocks | Antoine Fuqua | Denzel Washington, Chris Pratt | |
密探 | The Age of Shadows | 2016-9-7 | ||||
Master | Master | 2016 | Chủ tịch Jin | Gang Dong-won, Kim Woo-bin | ||
金融决战 | The King of Pigs | 2016 | ||||
渎职 | The King of Pigs | 2016 | ||||
局内人 | Inside Men | 2015-11-19 | Ahn Sang-goo | Woo Min-ho | Jo Seung-woo | |
侠女:刀之记忆 | Memories of the Sword | 2015-08 | Park Heung-sik | Jeon Do-yeon, Kim Go-eun, Lee Junho | ||
尖峰时刻4 | Rush Hour 4 | 2015 | Diddy | |||
Beyond Deceit | Beyond Deceit | 2015 | Anthony Hopkins, Al Pacino | |||
终结者:创世纪 | Terminator Genisys | 2015 | T-1000 | Alan Taylor | Arnold Schwarzenegger, Jason Clarke | |
赤焰战场2 | Red 2 | 2013 | Han Cho-bai | Dean Parisot | Bruce Willis, Anthony Hopkins, Catherine Zeta-Jones, Mary-Louise Parker, John Malkovich, Helen Mirren | |
特种部队2:全面反击 | G.I. Joe: Retaliation | 2013 | Storm Shadow | Jon M. Chu | Channing Tatum, Adrianne Palicki, Ray Stevenson, Dwayne Johnson, Elodie Yung | |
光海,成为王的男人 | Masquerade | 2012 | Vua Gwanghae / Ha-sun | Choo Chang-min | Ryu Seung-ryong, Han Hyo-joo, Kim In-kwon | |
分享视界 | A Brand New Life | 2011 | ||||
看见恶魔 | I Saw the Devil | 2010 | Kim Soo-hyun | Kim Jee-woon | Choi Min-sik | |
The Influence | The Influence | 2010 | Lee Jae-gyu | Han Chae-young | ||
IRIS电影版 | Iris: The Movie | 2010 | ||||
影响 | The Influence | 2010 | ||||
特种部队:眼镜蛇的崛起 | G.I. Joe: The Rise of Cobra | 2009 | Storm Shadow | Stephen Sommers | Channing Tatum, Dennis Quaid, Marlon Wayans, Sienna Miller, Rachel Nichols, Joseph Gordon-Levitt | |
伴雨行 | I Come with the Rain | 2009 | Su Dongpo | Tran Anh Hung | Josh Hartnett, Tran Nu Yen Khe, Kimura Takuya, Elias Koteas | |
好家伙坏家伙怪家伙 | The Good, the Bad, the Weird | 2008 | Kẻ xấu | Kim Jee-woon | Jung Woo-sung, Song Kang-ho | |
律政英雄 | Hero | 2007 | Khách mời | |||
墓岛夜话 | Epitaph | 2007 | ||||
那年夏天 | Once in a Summer | 2006 | Jo Geun-sik | Soo Ae | ||
甜蜜人生 | A Bittersweet Life | 2005 | Sun-woo | Kim Jee-woon | Kim Yeong-cheol | |
甜蜜的人生 | A Bittersweet Life | 2005 | ||||
谁都有秘密 | Everybody Has Secrets | 2004 | Choi Su-hyeon | Jang Hyun-soo | Chu Sang-mi, Kim Hyo-jin | |
三更2 | Three… Extremes II | 2004 | Đạo diễn | Fruit Chan | Tony Leung Ka-fai, Miriam Yeung, Tadanobu Asano | |
中毒 | Addicted | 2002-10-18 | Dae-jin | Park Young-hoon | Lee Mi-yeon | |
爱的蹦极 | Bungee Jumping of Their Own | 2001-2-3 | Seo In-woo | Kim Dae-seung | Lee Eun-ju | |
远行 | Into the Faraway Place | 2001 | ||||
JSA共同警备区 | Joint Security Area | 2000 | Trung sĩ Lee Soo-hyeok | Park Chan-wook | Song Kang-ho, Lee Young-ae, Kim Tae-woo | |
记忆中的风琴 | The Harmonium in My Memory | 1999 | Lee Young-jae | Jeon Do-yeon, Lee Mi-yeon | ||
地上满歌 | The Rhapsody | 1997 | ||||
他们的世界 | The Rhapsody | 1996 | ||||
汉城大逃亡 | The City of Violence | 1995 | ||||
谁让我如此疯狂 | Who Drives Me Mad | 1995 | Lee Jong-du | Choi Jong-won | ||
斧子约 | The Axe | 2024 | Park Chan-wook |
Album nhạc
Tên album | Năm phát hành | Ngôn ngữ |
---|---|---|
Itsuka | 2008 | Tiếng Nhật |
Bài hát
Tên bài hát | Năm phát hành | Ghi chú |
---|---|---|
To Me | 1999 | |
Tears | 1999 | |
For the Last Time Love | Nhạc phim Beautiful Days |
Nhạc phim
Năm | Bài hát | Album |
---|---|---|
2010 | “Stay” | Iris OST |
2010 | “Endless Road” | Iris OST |
Chương trình thực tế
Năm phát sóng | Tên chương trình |
---|---|
2013-03-18 | Healing Camp |
2013-03-11 | Healing Camp |
Hoạt động xã hội
Vai trò đại sứ
Năm 2010, Lee Byung Hun được bổ nhiệm làm đại sứ quảng bá du lịch của California tại Hàn Quốc.
Năm 2013, Lee Byung Hun được chọn làm đại sứ danh dự cho cuộc họp thường niên năm đó của Hiệp hội các Ủy viên Điện ảnh Quốc tế, một nhóm chuyên giúp tạo điều kiện thuận lợi cho các chương trình hợp tác sản xuất quốc tế.
Cùng năm đó, anh được bổ nhiệm làm đại sứ danh dự để quảng bá cho Giải thưởng Điện ảnh Daejong lần thứ 50.
Hoạt động từ thiện
Vào tháng 3 năm 2011, Lee Byung Hun đã quyên góp 700 triệu won cho Hội Chữ thập đỏ Hàn Quốc để giúp đỡ người dân địa phương bị ảnh hưởng bởi trận động đất và sóng thần ở Nhật Bản.
Vào tháng 11 năm 2016, Lee Byung Hun đã quyên góp giọng nói của mình cho Quỹ Trẻ em Dù Xanh cho ‘Haru’, một chiến dịch hỗ trợ trẻ em bị bệnh.
Vào tháng 4 năm 2019, Lee Byung Hun và vợ Lee Min-jung đã quyên góp 100 triệu cho các nạn nhân của vụ cháy rừng ở Gangwon-do.
Vào tháng 2 năm 2020, Lee Byung Hune đã quyên góp 100 triệu won thông qua Quỹ Trái tim Yêu thương của Quỹ Cộng đồng Hàn Quốc và khoản quyên góp của anh đã được sử dụng để cung cấp các sản phẩm vệ sinh cho các nhóm dễ bị tổn thương.
Vào tháng 10 năm 2020, Lee Byung Hun đã quyên góp giọng nói của mình cho sách cảm giác chữ nổi dạng đa phương tiện của Viện Nghiên cứu Di sản Văn hóa Quốc gia. Vào ngày 30 tháng 12 năm 2020, Lee Byung Hun đã quyên góp 100 triệu won cho Quỹ Trẻ em Dù Xanh để giúp đỡ trẻ em từ các gia đình có thu nhập thấp đang gặp khó khăn trong cuộc sống do COVID-19.
Vào ngày 12 tháng 7 năm 2021, Lee Byung Hun đã quyên góp 100 triệu won cho Bệnh viện Nhi đồng Asan ở Seoul vào ngày sinh nhật của mình.
Vào ngày 6 tháng 3 năm 2022, Lee Byung Hun đã quyên góp 100 triệu won cho Hiệp hội Cứu trợ Thảm họa Cầu Hy vọng để giúp đỡ người dân bị ảnh hưởng bởi trận cháy rừng Uljin và Samcheok và khoản quyên góp của anh được cho là sẽ nhanh chóng được sử dụng để cung cấp nơi ở tạm thời cho các nạn nhân đang sơ tán khỏi nhà của họ.
Các hoạt động khác
Lee Byung Hun thành lập một công ty quản lý, BH Entertainment, quản lý nhiều diễn viên bao gồm Han Hyo-joo, Go Soo, Jin Goo, Jinyoung và Han Ji-min. Anh sở hữu một cửa hàng, BHNC, bán mũ, khăn quàng cổ và ví.
Lee Byung Hun được biết đến trong ngành công nghiệp trò chơi điện tử vì đã cung cấp hình ảnh của mình cho nhân vật chính, Wayne Holden, trong trò chơi năm 2006 Lost Planet: Extreme Condition, cho Xbox 360, PS3 và PC.
Danh sách các giải thưởng và đề cử
Giải thưởng điện ảnh và truyền hình
Năm | Giải thưởng | Tác phẩm | Kết quả |
---|---|---|---|
2024 | Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang lần thứ 60 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Concrete Utopia: Chung cư sinh tồn | Đề cử |
2023 | Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 44 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Concrete Utopia: Chung cư sinh tồn | Đoạt giải |
2023 | Giải thưởng Chuông Vàng lần thứ 59 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Concrete Utopia: Chung cư sinh tồn | Đoạt giải |
2023 | Giải thưởng Điện ảnh Busan lần thứ 32 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Concrete Utopia: Chung cư sinh tồn | Đoạt giải |
2023 | Giải thưởng Chuông Vàng lần thứ 59 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Concrete Utopia: Chung cư sinh tồn | Đề cử |
2023 | Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang lần thứ 59 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất hạng mục Truyền hình | Our Blues | Đề cử |
2022 | Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 43 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Emergency Declaration | Đề cử |
2021 | Giải thưởng Điện ảnh Châu Á lần thứ 15 – Giải thưởng Thành tựu trọn đời | Đoạt giải | |
2020 | Giải thưởng của Hiệp hội phê bình phim Hàn Quốc lần thứ 40 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | The Man Standing Next | Đoạt giải |
2020 | Giải thưởng Điện ảnh Châu Á lần thứ 14 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | The Man Standing Next | Đoạt giải |
Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang
Năm | Giải thưởng | Tác phẩm | Kết quả |
---|---|---|---|
2020 | Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang lần thứ 56 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất hạng mục Điện ảnh | The Man Standing Next | Đoạt giải |
2019 | Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang lần thứ 55 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất hạng mục Truyền hình | Mr. Sunshine | Đoạt giải |
2017 | Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang lần thứ 53 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất hạng mục Điện ảnh | Master | Đề cử |
2016 | Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang lần thứ 52 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất hạng mục Điện ảnh | Inside Men | Đoạt giải |
2013 | Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang lần thứ 49 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất hạng mục Điện ảnh | Masquerade | Đề cử |
2011 | Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang lần thứ 47 – Giải thưởng lớn (Daesang) hạng mục Điện ảnh | I Saw the Devil | Đoạt giải |
2011 | Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang lần thứ 47 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất hạng mục Điện ảnh | I Saw the Devil | Đề cử |
2010 | Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang lần thứ 46 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất hạng mục Truyền hình | Iris | Đoạt giải |
2006 | Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang lần thứ 42 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất hạng mục Điện ảnh | A Bittersweet Life | Đoạt giải |
2003 | Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang lần thứ 39 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất hạng mục Truyền hình | Love Story in Los Angeles | Đoạt giải |
1996 | Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang lần thứ 32 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất hạng mục Truyền hình | The Wind’s Son | Đoạt giải |
Giải thưởng Chuông Vàng
Năm | Giải thưởng | Tác phẩm | Kết quả |
---|---|---|---|
2020 | Giải thưởng Chuông Vàng lần thứ 56 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Ashfall | Đoạt giải |
2018 | Giải thưởng Chuông Vàng lần thứ 55 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | The Fortress | Đề cử |
2016 | Giải thưởng Chuông Vàng lần thứ 53 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Inside Men | Đoạt giải |
2012 | Giải thưởng Chuông Vàng lần thứ 49 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Masquerade | Đoạt giải |
2005 | Giải thưởng Chuông Vàng lần thứ 42 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | A Bittersweet Life | Đề cử |
2001 | Giải thưởng Chuông Vàng lần thứ 38 – Nam diễn viên được yêu thích nhất | Đoạt giải | |
1996 | Giải thưởng Chuông Vàng lần thứ 34 – Nam diễn viên mới xuất sắc nhất | The City of Violence | Đoạt giải |
Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh
Năm | Giải thưởng | Tác phẩm | Kết quả |
---|---|---|---|
2017 | Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 38 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | The Fortress | Đề cử |
2016 | Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 37 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Inside Men | Đoạt giải |
2013 | Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 34 – Ngôi sao được yêu thích nhất | Đoạt giải | |
2012 | Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 33 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Masquerade | Đề cử |
2010 | Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 31 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | I Saw the Devil | Đề cử |
2009 | Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 30 – Ngôi sao được yêu thích nhất | Đoạt giải | |
2008 | Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 29 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | The Good, the Bad, the Weird | Đề cử |
2005 | Giải thưởng Điện ảnh Rồng Xanh lần thứ 26 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | A Bittersweet Life | Đề cử |
Giải thưởng Điện ảnh Châu Á/Châu Á – Thái Bình Dương
Năm | Giải thưởng | Tác phẩm | Kết quả |
---|---|---|---|
2016 | Giải thưởng Điện ảnh Châu Á lần thứ 10 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Inside Men | Đoạt giải |
2013 | Giải thưởng Điện ảnh Châu Á – Thái Bình Dương lần thứ 7 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Masquerade | Đoạt giải |
2009 | Giải thưởng Điện ảnh Châu Á lần thứ 3 – Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất | The Good, the Bad, the Weird | Đề cử |
Các giải thưởng điện ảnh khác
Năm | Giải thưởng | Tác phẩm | Kết quả |
---|---|---|---|
2016 | Giải thưởng Điện ảnh Busan lần thứ 25 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Inside Men | Đoạt giải |
2016 | Giải thưởng của Hiệp hội phê bình phim Hàn Quốc lần thứ 36 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Inside Men | Đoạt giải |
2016 | Giải thưởng Điện ảnh Chunsa lần thứ 21 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Inside Men | Đề cử |
2013 | Giải thưởng Hoa Đỉnh lần thứ 9 – Nam diễn viên nước ngoài xuất sắc nhất | Đoạt giải | |
2012 | Giải thưởng của Hiệp hội phê bình phim Busan lần thứ 13 – Giải thưởng Diễn xuất xuất sắc nhất | Masquerade | Đoạt giải |
2012 | Ngôi sao của năm tại CineAsia | G.I. Joe: Retaliation | Đoạt giải |
2011 | Giải thưởng lớn phim ngắn tại Liên hoan phim Quốc tế Hàn Quốc 3D lần thứ 3 | A Brand New Life | Đoạt giải |
2010 | Nam diễn viên xuất sắc nhất “Ấn tượng Điện ảnh Châu Á” tại Đại hội Hiệp hội Nhà sản xuất Châu Á – Thái Bình Dương (APN) lần thứ 5 | G.I. Joe: The Rise of Cobra | Đoạt giải |
2007 | Giải thưởng Điện ảnh Chunsa lần thứ 15 – Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Once in a Summer | Đề cử |
2006 | Huân chương Văn hóa Nghệ thuật “Hiệp sĩ” của Pháp | Đoạt giải | |
2000 | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Liên hoan phim Quốc tế Busan và Giải thưởng của Hiệp hội phê bình phim Hàn Quốc lần thứ nhất | Joint Security Area | Đoạt giải |
Các giải thưởng khác
Năm | Giải thưởng | Kết quả |
---|---|---|
2011 | Giải thưởng Văn hóa Nghệ thuật Đại chúng Hàn Quốc do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hàn Quốc trao tặng | Đoạt giải |
2010 | Giải thưởng Biểu tượng Phong cách của năm tại Lễ trao giải “Style Icon” | Đoạt giải |
2010 | Giải thưởng Đóng góp Nổi bật cho Nghệ thuật Biểu diễn Châu Á tại Lễ trao giải Chinese Music Media Awards lần thứ 14 | Đoạt giải |
2010 | Giải thưởng Ngôi sao Châu Á tại Lễ trao giải Người mẫu Châu Á lần thứ 5 | Đoạt giải |
Các giải thưởng truyền hình khác
Năm | Giải thưởng | Tác phẩm | Kết quả |
---|---|---|---|
2010 | Giải thưởng lớn cho Diễn viên phim truyền hình tại Giải thưởng Văn hóa Nghệ thuật Seoul lần thứ nhất | Iris | Đoạt giải |
2010 | Giải thưởng Nam diễn viên Châu Á xuất sắc nhất tại Liên hoan phim Quốc tế Tokyo | Iris | Đoạt giải |
2009 | Giải thưởng Bình chọn của cư dân mạng tại KBS Drama Awards | Iris | Đoạt giải |
2009 | Giải thưởng Đặc biệt tại Giải thưởng Quốc hội Hàn Quốc lần thứ 10 | Iris | Đoạt giải |
2009 | Giải thưởng lớn Danh dự tại KBS Drama Awards | Iris | Đoạt giải |
2003 | Top 10 Diễn viên được yêu thích nhất tại SBS Drama Awards | All In | Đoạt giải |
2003 | Giải thưởng Diễn xuất xuất sắc nhất tại KBS Drama Awards | The Wind’s Son | Đoạt giải |
Đánh giá
Lee Byung Hun là mẫu người đàn ông Hàn Quốc điển hình: ít nói, kiên định, chăm chỉ và vững chãi như chiếc nồi đá lớn mà người Hàn Quốc thường dùng để ăn cơm (theo NetEase Entertainment).
Tranh cãi
Tờ Sports Chosun của Hàn Quốc tiết lộ rằng khóa đào tạo diễn viên thứ 14 (năm 1991) của đài KBS đã yêu cầu học viên, bao gồm cả Lee Byung Hun khi đó mới 22 tuổi, khỏa thân hoàn toàn để diễn xuất, với danh nghĩa là “thực hành khỏa thân”. Sự việc này sau đó còn được dựng thành phim The Naked vào năm 1992.
Ngày 28 tháng 8 năm 2014, Kim Da-hee và một người mẫu nữ đã quay video và chụp ảnh Lee Byung Hun có hành vi quấy rối tình dục, sau đó dùng những bằng chứng này để tống tiền anh 5 tỷ won.
Chiều ngày 2 tháng 9, Sở cảnh sát Gangnam đã xin lệnh bắt giữ Kim Da-hee và người mẫu nữ kia vì tội tống tiền Lee Byung Hun với số tiền khổng lồ.
Ngày 16 tháng 12 năm 2014, phiên tòa xét xử vụ bê bối tình dục của Lee Byung Hun được tổ chức lần thứ ba tại Tòa án quận trung tâm Seoul.
Người mẫu Lee Ji-yeon và Dahee, thành viên nhóm nhạc nữ GLAM, đều có mặt tại tòa. Cuối cùng, cả hai bị kết án 3 năm tù vì tội đe dọa.
Ảnh về Lee Byung Hun
Các bạn đang theo dõi bài viết “Lee Byung Hun | Tiểu sử Sự nghiệp Đời tư” nằm trong bộ WIKI “Trò Chơi Con Mực“ thuộc thể loại “Profile Diễn Viên“. Hãy theo dõi Thư Viện Movie để đọc thêm nhiều thông tin phim diễn viên hấp dẫn trong thời gian tới nhé!
Nguồn tham khảo:
- 李秉宪 – Baike.Baidu.com, https://baike.baidu.com/item/%E6%9D%8E%E7%A7%89%E5%AE%AA/160567, 11/7/2025.